DOS |
Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (1821 - 1881) là nhà văn nổi tiếng người Nga, cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov, Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lí con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh
thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao,
phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa
hiện sinh thế kỷ 20.
Đối với dân tộc chúng ta, Dostoievski khó hiểu hơn. Chúng ta thấy nhân vật của ông kì dị quá, du côn, tàn bạo, trụy lạc, cuồng loạn, điên khùng, tưởng đâu như bọn quỷ ở âm ty hiện lên. Ta không nhận ra được họ, họ hành động, suy nghĩ khác ta quá, ta ghê sợ, không có thiện cảm chút nào. Phần đông chúng ta quen với những nhân vật của Tự lực văn đoàn hay của Nguyễn Tuân, gần đây của Võ Phiến, có thích chăng là thích Le Grand Meaulnes của Alain Fournier, chứ đâu hiểu nổi tâm trạng Dmit’ri, Ivan, vì ta được uốn nắn từ nhỏ cái nếp sống bình dị, thuần hậu của Nho, Lão, Phật. (Nguyễn Hiến Lê – Dostoievski một người suốt đời chịu khổ để viết, Bách Khoa số 82, 83).
Qua khảo sát, chúng tôi thấy tên tuổi của Dostoievski được nhắc đến từ những năm 1930 –
1945, thời kì gia tốc của quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Tạp chí Tao Đàn số 3
(1.4.1939) của nhà xuất bản Tân Dân có trích đăng một đoạn văn dài của Dostoievski (Lan Khai
dịch) lấy tựa đề là “Cần có một ông trời”. Điều đáng chú ý là trước văn bản đó không có một
dòng nào giới thiệu về tác giả đoạn văn, dường như tên tuổi của người viết ra nó không phải lần đầu xuất hiện, nên không cần lời mào đầu làm quen nữa. Nguyễn Tuân kể rằng những ngày ông
ngồi tù (1941), theo yêu cầu của ông, người nhà đã gửi cho ông bốn cuốn sách của Dostoievski
và ông đã “say mê đọc”. Ông cho biết thêm: “Ở Hà Nội hồi ấy khối người say Dostoievski”.
Nguyên Hồng cũng hồi tưởng rằng vào “mùa rét năm 1935” giữa thành phố Hải Phòng “khó khăn cùng kiệt”, khi ông ngồi viết Bỉ vỏ, bộ phim Tội ác và hình phạt đã “dội lửa lên tâm trí ông”. Dịch giả Trương Đình Cử cho biết ông từng đọc Dostoievski từ “trước Cách mạng tháng Tám”. Luật sư Đinh Gia Trinh trong các bài viết bàn về văn học đăng trên tờ Thanh Nghị từ
1941 – 1945 có nhắc đến Dostoievski như một dẫn chứng tranh luận. Thạch Lam, Nhất Linh
cũng xác nhận sự có mặt của Dostoievski trong giai đoạn này trong các bài viết của mình. Trong
thư viện Quốc gia (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) hiện còn lưu giữ khá nhiều tác phẩm của
Dostoievski bằng tiếng Pháp và Anh được nhập vào Việt Nam trước 1945.
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), văn học Việt Nam bước sang một giai đoạn mới với
những mục tiêu mới, Dostoievski dần dần bị đẩy lùi xa khỏi ngưỡng cửa mà ông vừa mới bước
vào. Theo tinh thần của Đề cương văn hoá, với định hướng xây dựng một nền văn nghệ nhân
dân, với phương châm “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”, nền văn hoá trong
10 năm (1945 – 1954) đã chuyển sang một đường hướng mới, khác hẳn về chất so với văn nghệ
trước 1945. Giờ đây sự đổi mới lại là từ cái TÔI quay về với cái TA, gạt bỏ cái riêng tư để đến
với cái chung. Với hướng đi ấy, Dostoievski với những nội dung tư tưởng và phong cách “khó hiểu” của ông đối với quảng đại quần chúng không có cơ may tồn tại. Ở các đô thị bị tạm chiếm
(Hà Nội, Sài Gòn) tuy có điều kiện tiếp xúc với sách báo nước ngoài, nhưng trong không khí thời
chiến, người ta cũng ít nhắc đến Dostoievski hơn trước.
(Phạm Thị Phương - ĐH SP tp.HCM).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét